Thứ Tư, 8 tháng 5, 2013

Bệnh sán lá gan nhỏ


Sán lá gan nhỏ là bệnh do một loại sán có tên là Clonorchis sinensis (thường thấy ở các tỉnh phía Bắc) hoặc Opisthorkis viverrini (thường thấy ở các tỉnh miền Trung) kí sinh ở ống mật gây nên.

Thứ Hai, 6 tháng 5, 2013

Mang thai nhưng bị san lá gan có sao không?

benh san la gan có thể nhiễm qua cơ thể chúng ta bằng nhiều con đường nhưng con đường chủ yếu đấy là ăn uống, và cũng rất nhiều chị em phụ nữ có thai bị trường hợp đang mang thai nhưng lại bị sán lá gan.

thuốc điều tri sán Triclabendazol

Triclabendazol, dẫn xuất của benzimidazol là một loại thuốc điều trị giun sán, đặc biệt có hiệu quả trong điều trị sán lá, sán dây như sán lá gan, sán lá phổi. 

Những tác hại của nhiễm sán lá gan

Có nhiều trường hợp trên thế giới bị nhầm lẫn khi bị san lá gan mà lại tưởng bệnh ung thu mang lại hậu quả rất nghiêm trọng.

Thứ Tư, 17 tháng 4, 2013

Thuốc dùng cho bênh sán lá gan lớn


 Bệnh sán lá gan lớn khó nhận biết và khó chẩn đoán. Vì vậy, người bệnh cần khám để xác định rõ bệnh và dùng đúng thuốc đặc trị


Ấu trùng benh san la ganlớn có trong cá nước lợ, chủ yếu hơn trong các loại rau sống trong nước (cải xoong, ngổ, rau om, rau cần, ngó sen). Ăn gỏi cá, rau sống, rau trộn (chưa chín đủ độ) làm cho dạng nang ấu trùng xâm nhập vào dạ dày ruột, rồi tự lột lớp vỏ, xuyên qua màng ruột, theo máu, vào gan rồi phát triển, sau đó định hình ở ống mật. Sau 2-3 tháng sẽ phát sinh triệu chứng: sốt, run lạnh, đau vùng bụng, vùng gan (hạ sườn phải). Nếu không điều trị sẽ chuyển sang mạn với biểu hiện mệt, chán ăn buồn nôn, xuất huyết đường tiêu hóa, thiếu máu, đau khớp, đau cơ, ho, cũng có thể tràn dịch màng phổi... Hiện nay, thuốc được dùng đặc trị benh san la gan  lớn là triclabendazol. Hiện thuốc này không có bán ở các hiệu thuốc mà Viện Sốt rét ký sinh trùng cấp miễn phí. Thuốc dùng cho người có tên là egaten, còn dùng cho thú y có tên là fasinex, cần tránh nhầm lẫn.benh san la gan lớn.Thuốc đặc trị này có tác dụng ngăn cản quá trình phosphoryl- oxy hóa ở ty lạp thể, làm cho sán không kiểm soát được hô hấp, đồng thời gắn kết với các phân tử tubulin ngăn cản quá trình hình thành vi ống ở sán. Từ đó sán bị tê liệt và chết. Thuốc được dùng đường uống, sau khi ăn no, nuốt cả viên với một ít nước, không nhai. Khi dùng người bệnh có thể thấy mệt, đau ngực, sốt, buồn nôn, đau thượng vị, đau hạ sườn phải... Những hiện tượng này là phổ biến, có thể do sán tê liệt phóng thích ra kháng nguyên hơn là do bản thân thuốc. Một vài nghiên cứu mới đây của nhà sản xuất thấy thuốc gây quái thai trên súc vật nhưng chưa ghi nhận được ở người. Không dùng cho người có thai, người cho con bú, trẻ dưới 6 tuổi.
Có thể dùng atesunat khi không có triclabenzadol. Tuy nhiên, nghiên cứu còn nhỏ, hiện chưa có hướng dẫn chi tiết.
Không nên dùng các thuốc giun sán thông thường như albendazol, menbendazol. Praziquantel cũng là thuốc tẩy giun nhưng chỉ hiệu quả với benh san la gan nhỏ. Với sán lá gan lớn hiệu quả rất ít, chỉ khoảng 30% trường hợp hầu như không hiệu quả.
Trước đây, khi chưa có thuốc đặc hiệu, một số thầy thuốc trong và ngoài nước có thử dùng các thuốc trên nhưng do tác dụng độc của thuốc hoặc thuốc không có hiệu quả nên hiện nay không dùng nữa.

Thuốc trị bệnh sán lá gan

Thời gian gần đây, một số bệnh nhân bị bệnh sán lá gan lớn được phát hiện tại Bệnh viện Trung ương Huế và một số cơ sở y tế khác tại tỉnh Thừa Thiên Huế dựa vào triệu chứng lâm sàng, siêu âm chẩn đoán và xét nghiệm phản ứng huyết thanh Elisa dương tính với sán lá gan. 

Cách phòng chống bệnh sán lá gan


 benh san la gan gồm có hai loại:
  benh san la gan  nhỏ: là vật ký sinh ở chó, chuột, mèo... Phân và chất thải của chúng thải ra môi trường mang theo trứng sán vào nước phát triển thành ấu trùng. Con đường lây nhiễm vào người là do có thói quen

hay ăn cá sống (gỏi cá sống, cá có mang ấu trùng). Bệnh này mang tính chất mãn tính, được phát hiện hoặc tình cờ khi xét nghiệm phân thấy trứng sán lá gan nhỏ hoặc khi người bệnh có các triệu chứng sỏi mật.
  benh san la gan  lớn: Vật chủ chính của sán lá gan lớn là động vật ăn cỏ như trâu, bò, cừu. Trứng sán từ phân và chất thải của động vật ra môi trường cũng phát triển thành ấu trùng. Do người dân có thói quen dùng phân tươi của các loại động vật này để trồng rau, nuôi thủy sản. Vì vậy sán nhiễm vào người qua ăn rau mọc dưới nước có mang ấu trùng. Khi vào người, bệnh thể hiện ở giai đoạn đầu xâm nhập của ấu trùng, ấu trùng đi xuyên qua mô gan gây phản ứng mạnh của cơ thể người. Ở giai đoạn này xét nghiệm phân không thể tìm thấy trứng sán nên phải tìm phản ứng trong máu của cơ thể người số bạch cầu ái toan tăng cao, ngoài ra có thể làm huyết thanh miễn dịch để chẩn đoán bệnh.
    Để phòng benh san la gan lớn và sán lá gan nhỏ, chúng ta cần thực hiện tốt các nội dung sau: Không ăn cá chưa nấu chín; không ăn rau sống mọc dưới nước; không uống nước lã, không ăn gan sống; thực hiện ăn chín, uống chín; không dùng phân người nuôi cá, không phóng uế bừa bãi xuống các nguồn nước; người nghi ngờ nhiễm bệnh phải đến các 

Mổ ung thư phát hiện ổ sán lá gan



   Nhiều người được chẩn đoán ung thư, bệnh viện trả về để chết hoặc khi phẫu thuật lại thấy sán lá gan. Thật hãi hùng khi những con sán lại làm tổ “lạc chỗ” khiến các nhà khoa học cũng phải giật mình. Người bị sán lá gan dễ bị chẩn đoán nhầm và dễ gây tử vong.